Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp để tạo hứng thú học tốt môn Mĩ Thuật lớp 1 (Cánh Diều)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp để tạo hứng thú học tốt môn Mĩ Thuật lớp 1 (Cánh Diều)

A. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN

I. Phần mở đầu.

1. Lý do chọn đề tài.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.

3. Đối tượng nghiên cứu.

4. Giới hạn của đề tài.

5. Phương pháp nghiên cứu.

II. Phần nội dung.

1. Cơ sở lý luận .

2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.

Phân tích, đánh giá các nội dung, vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra, đã áp dụng, áp dụng thử; số liệu minh họa cụ thể, chính xác.

3. Nội dung và hình thức của giải pháp

a. Mục tiêu của giải pháp

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp

c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp (nếu có)

d. Kết quả khảo nghiệm, giái trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng (cần xác định rõ thước đo hiệu quả của ứng dụng, có số liệu định tính, định lượng minh họa).

III. Phần kết luận, kiến nghị.

1. Kết luận: Viết ngắn gọn, không cần số liệu.

- Nêu khái quát các nội dung nghiên cứu.

- Kết quả nội dung nghiên cứu.

2. Kiến nghị: Viết ngắn gọn và xuất phát từ nội dung nghiên cứu của đề tài.

* Trang cuối: Tài liệu tham khảo.

* Yêu cầu số trang của 1 sáng kiến từ 14 đến không quá 40 trang

 

doc 20 trang thuong95 6632
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp để tạo hứng thú học tốt môn Mĩ Thuật lớp 1 (Cánh Diều)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN 
I. Phần mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài. 
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. 
3. Đối tượng nghiên cứu. 
4. Giới hạn của đề tài. 
5. Phương pháp nghiên cứu. 
II. Phần nội dung. 
1. Cơ sở lý luận .
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. 
Phân tích, đánh giá các nội dung, vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra, đã áp dụng, áp dụng thử; số liệu minh họa cụ thể, chính xác. 
3. Nội dung và hình thức của giải pháp 
a. Mục tiêu của giải pháp 
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp 
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp (nếu có) 
d. Kết quả khảo nghiệm, giái trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng (cần xác định rõ thước đo hiệu quả của ứng dụng, có số liệu định tính, định lượng minh họa). 
III. Phần kết luận, kiến nghị. 
1. Kết luận: Viết ngắn gọn, không cần số liệu. 
- Nêu khái quát các nội dung nghiên cứu. 
- Kết quả nội dung nghiên cứu. 
2. Kiến nghị: Viết ngắn gọn và xuất phát từ nội dung nghiên cứu của đề tài. 
* Trang cuối: Tài liệu tham khảo. 
* Yêu cầu số trang của 1 sáng kiến từ 14 đến không quá 40 trang . 
B. MẪU BẢNG TÓM TẮT SÁNG KIẾN. 
1. Tên đề tài: 
2. Nội dung lĩnh vực đề tài: 
3. Tác giả (họ và tên; chức vụ; bộ môn giảng dạy, nhiệm vụ công tác) 
4. Nội dung tóm tắt: 7 
 MỤC LỤC
 Nội dung
 Trang
A. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN.
01-03
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
04
1. Lý do chọn đề tài.
04
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
05
3. Đối tượng nghiên cứu.
06
4. Giới hạn của đề tài
06
5. Phương pháp nghiên cứu.
06
II. PHẦN NỘI DUNG:
06
1. Cơ sở lý luận:
06
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
07-10
3. Nội dung và hình thức của giải pháp.
10-25
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
25
1. Kết luận.
25
2. Kiến nghị.
26
B. Bảng tóm tắt sáng kiến.
27
3. Tài liệu tham khảo
28
4. Phần nhận xét, đánh giá của hội đồng chuyên môn 
29
 BÁO CÁO SÁNG KIẾN
 ------------------------------------------------*--------------------------------------------------
I/ THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN:
- Tên sáng kiến: “Một số giải pháp để tạo hứng thú học tốt môn Mĩ Thuật lớp 1” (Cánh Diều) 
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ Giáo Dục & Đào Tạo
- Phạm vi áp dụng sáng kiến: Trường tiểu học Lê Ngọc Hân
- Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ năm 2020 - 2021
- Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH THÁI
- Họ và tên: NGUYỄN ĐÌNH THÁI
- Năm sinh: 30/04/1970
- Trình độ chuyên môn: Sư Phạm Mĩ Thuật
- Chức vụ công tác: Giáo viên
- Nơi làm việc: Trường tiểu học Lê Ngọc Hân
- Địa chỉ liên hệ: 247 Nguyễn Văn Cừ TP/ Buôn Ma Thuột
- Điện thoại: 090 522 5088
- Email: nguyendinhthaimythuat@gmail.com
 I. PHẦN MỞ ĐẦU:	
 1/ Lý do chọn đề tài:
 Mĩ thuật có vai trò lớn trong việc rèn luyện một con người, vì thế môn Mĩ thuật đã được Bộ giáo dục và đào tạo đưa vào khung của chương trình giáo dục phổ thông nói chung và bậc Tiểu học nói riêng thành một môn học độc lập, có nội dung chương trình được biên soạn một cách cụ thể, rõ ràng. Là một giáo viên giảng dạy Mĩ thuật tiểu học, tôi nhận thấy được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục học sinh, để các em học sinh có được cách nhìn nhận sự vật, sự việc quanh em một cách đúng đắn thì đòi hỏi các em cần có một tư duy tốt, có được tư duy tốt sẽ giúp các em phát triển toàn diện về mọi lĩnh vực. Do đó giáo viên cần nắm bắt được tâm sinh lí của học sinh, nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình dạy học, hiểu rõ về các phương pháp dạy học từ đó lựa chọn những cách dạy, những phương pháp dạy học phù hợp nhằm kích thích gây hứng thú cho các em trong quá trình học tập. Đối với môn Mĩ thuật thì việc tạo hứng thú cho các em học sinh là vô cùng quan trọng, người giáo viên ngoài việc nắm bắt về đặc điểm tâm lí của học sinh thì còn phải nắm bắt được những nhu cầu để tạo hứng thú trong học tập, từ đó kích thích sự hào hứng học tập, tạo cho các em có được sự tự giác học tập hơn và phát huy tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng để học tốt bộ môn Mĩ thuật nói chung và phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm sản phẩm các chủ đề nói riêng. Với cương vị là một người giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học .., qua những năm công tác tôi nhận thấy tầm quan trọng của bộ môn Mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng. Đối với các em học sinh nặn hoặc vẽ, xé dán làm sản phẩm các chủ đề là một phân môn giúp các em nhận biết được mọi sự vật hiện tượng xảy ra quanh em, thấy được vẻ đẹp, đặc điểm của mọi vật từ hoa, lá, quả, cây cho đến các loài vật, con người bằng đường nét, hình khối. Từ đó sẽ tạo cho các em biết yêu quý thiên nhiên, biết yêu thương con người, cuộc sống, biết bảo vệ, giữ gìn và trân trọng những giá trị mà cuộc sống mang lại. Học sinh học tốt phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm sản phẩm các chủ đề sẽ bổ trợ cho các em học tốt các phân môn Mĩ thuật. 
 Vậy làm thế nào để học sinh có được sự hứng thú học tốt phân môn, nặn hoặc vẽ, xé dán làm sản phẩm đặc biệt với học sinh khối lớp 1 là điều hết sức quan trọng cho việc giảng dạy bộ môn Mĩ thuật mà tôi trăn trở, nên tôi quyết định chọn đề tài: Một số giải pháp để tạo hứng thú học tốt môn Mĩ Thuật lớp 1 (Cánh Diều) ở trường Tiểu học 
 Mặc dù vậy, phương pháp dạy học Mĩ thuật chương trình mới được áp dụng trên khắp cả nước từ học kì 1 của năm học 2020 - 2021 vẫn còn khá nhiều điểm giáo viên băn khoăn, lúng túng, không biết thực hiện như thế nào cho đúng tinh thần đổi mới, cho đạt hiệu quả? Qua các đợt tập huấn và dự giờ thực tế, có thể nói hình thức tổ chức của phương pháp mới này còn quá mơ hồ đối với đại đa số giáo viên chuyên trách. Ngoài vấn đề thay đổi nội dung phân phối chương trình, sự thay đổi hình thức tổ chức lớp học phần lớn được thông qua hoạt động nhóm là một trong những vấn đề trọng tâm khiến giáo viên không khỏi tránh được những khó khăn, vướng mắc. 
 - Tại sao phải tổ chức hình thức học tập theo Chương trình mới, Mĩ thuật lớp 1 (Cánh Diều) 	
 - Khi học tập theo Chương trình mới thì đánh giá học sinh như thế nào để đảm bảo đúng, chính xác với năng lực thực tế của từng học sinh?...
	Trên đây là một số các câu hỏi đặt ra mà mỗi giáo viên đều mong muốn có được câu trả lời xác đáng. Như lời thầy chuyên viên chính Vụ Giáo dục Tiểu học, Bộ GD&ĐT. Cái gì đổi mới, thời gian đầu cũng sẽ không tránh khỏi khó khăn, điều quan trọng chính là ở chỗ, người giáo viên phải biết lấy học sinh làm trung tâm của quá trình giảng dạy, hiểu trình độ từng em, từ đó có những hành động thiết thực để cải thiện điều kiện học tập và kết quả học tập của các em. Với những nỗ lực của bản thân, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu và đề ra một số giải pháp nhằm tổ chức có hiệu quả hình thức học tập nhóm theo Chương trình mới, Mĩ thuật lớp 1 (Cánh Diều)
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
 a. Mục tiêu: 
 Truyền cảm hứng cho giáo viên Tiểu học, khuyền khích giáo viên kết hợp các kỹ năng Mĩ thuật với các phương pháp dạy học mới. Mục tiêu chính của phương pháp này nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực:
 b. Nhiệm vụ của đề tài:
 Như lí do nói trên, tôi nghiên cứu đề tài nhằm giúp bản thân tự học, tự rèn luyện để nâng cao tay nghề, đồng thời muốn chuyển tải một số kinh nghiệm tích luỹ được qua thời gian công tác đến với bạn bè đồng nghiệp, cùng chung tay góp sức vào việc giảng dạy nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề nói riêng. 
 Tìm hiểu những vấn đề lí luận về phương pháp dạy học Mĩ thuật trong phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm sản phẩm các chủ đề.
 Tìm hiểu những ưu điểm của phương pháp dạy học Mĩ thuật trong nhà trường tiểu học hiện hành, tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lí học sinh cùng với nhận thức của phụ huynh học sinh về tầm quan trọng của bộ môn Mĩ thuật. Từ đó tìm ra những giải pháp tốt nhất để thiết kế bài giảng một cách cụ thể, có khoa học và lựa chọn được những cách dạy, phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học khác nhau cho từng tiết dạy cụ thể để tạo hứng thú cho các em học sinh học tốt phân môn nặn vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề và tạo tiền đề kích thích sự đam mê, tự giác trong việc học tập và phát huy khả năng sáng tạo cho các em học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Mĩ thuật cùng với phân môn vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề.
3. Đối dượng nghiên cứu Nghiên cứu:
 Những phương pháp dạy học Mĩ thuật Chương trình mới, Mĩ thuật lớp 1 (Cánh Diều) nói chung và chú trọng phương pháp dạy học phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm các sản phẩm nói riêng để tìm ra một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh khối lớp 1. trường Tiểu học .
4. Giới hạn của đề tài: 
 Với mục tiêu và đối tượng nói trên tôi chọn những học sinh thân yêu của mình ở trường Tiểu học .
5. Phương pháp nghiên cứu:
 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
 - Phương pháp điều tra.
 - Phương pháp phân tích tổng hợp, điều tra, so sánh.
 - Phương pháp chứng minh thực nghiệm.
 Từ những lí do chọn đề tài về “Một số giải pháp để tạo hứng thú học tốt môn Mĩ Thuật lớp 1” (Cáng Diều) Tôi xác định được bản thân là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Mĩ thuật, thì mình cần phải làm những gì để nâng cao chất lượng dạy và học Mĩ thuật nói chung, và phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm sản phẩm nói riêng là luôn luôn tìm tòi, học hỏi bạn bè đồng nghiệp làm sao để vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp giảng dạy, để giờ học sinh động, hấp dẫn, dễ hiểu nhất. Tôi chọn đối tượng là những học sinh học khối lớp 1A,1B.1C thân yêu của ngôi trường mình đang giảng dạy để nghiên cứu đề tài, cùng với những phương pháp nghiên cứu mà tôi đã nói trên giúp tôi thực hiện được đề tài này.
 II. NỘI DUNG:
Cơ sở lý luận.
 Đất nước ta đang trên còn đường phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi cần có những con người năng động, sáng tạo có đủ đức, trí, thể, mĩ để sánh vai cùng với bạn bè quốc tế. Vì thế giáo dục ngày càng được xã hội quan tâm, nhu cầu học tập của người dân ngày càng nhiều, trình độ dân trí của đất nước ngày một tăng Chính vì thế Đảng và nhà nước ta luôn đặt giáo dục lên hàng đầu và đưa ra những yêu cầu và nhiệm vụ cho ngành giáo dục bằng những chỉ thị, nghị quyết, văn bản nhằm thay đổi mục tiêu, nội dung chương trình và cách đánh giá kết quả học tập của học sinh để nâng cao chất lượng dạy và học. trước thực trạng nói trên thì việc thay đổi phương pháp giảng dạy cũng phải đổi theo cho phù hợp với mục tiêu giáo dục của ngành đề ra. Nghị quyết Trung ương khoá 13 đã chỉ rõ “ Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học; kết hợp với hành, học tập vời lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường và xã hội; áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Nghị quyết Trung ưung khoá 13 tiếp tục khẳng định: “ Phải đổi mới phương pháp giáo dục khắc phụ truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Luật giáo dục đã ghi rõ: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
 Cơ sở thực tiễn qua quá trình tìm hiểu thực tế và các nguồn thông tin khác, tôi nhận thấy bộ môn Mĩ thuật đã và đang được tất cả các trường tiểu học trong cả nước thực hiện giảng dạy chương trình mới một cách nghiêm túc theo đúng với mục tiêu, nội dung chương trình mà Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành. Việc giảng dạy Mĩ thuật bằng phương pháp dạy học mới thì các em tự lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, và tạo được hứng thú học tập cho học sinh học tốt môn Mĩ thuật và các môn học khác. Người giáo viên biết tích hợp các phương pháp dạy học một cách linh hoạt khi dạy Mĩ thuật thúc đẩy việc tự giác học tập cho học sinh. 
 Từ những điều nói trên, kết hợp với tình hình thực tế tôi nhận thấy công tác giảng dạy môn Mĩ thuật cũng thư khi dạy phân môn vẽ, xé dán làm sản phẩm trong nhà trường Tiểu học còn nhiều hạn chế. Cụ thể được thể hiện ở các bài tập của học sinh, khả năng cảm thụ vẻ đẹp của mọi sự vật quanh em còn hạn chế nên các em học chưa tốt phân môn vẽ vẽ, xé dán làm sản phẩm cũng như chưa có hứng thú để học bộ môn Mĩ thuât trong nhà trường.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. 
 Thực trạng Trường Tiểu học được sự chỉ đạo sát xao của lãnh đạo các cấp, Chi bộ cùng với BGH nhà trường rất quan tâm đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh. Trong quá trình chỉ đạo cũng có nhiều mặt mạnh song vẫn tồn tại một số khó khăn.
 a/ Thuận lợi - khó khăn:
 Thuận lợi: Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện để bồi dưỡng giáo viênv về những phương pháp dạy học mới phù hợp với sự phát triển của toàn xã hội, BGH nhà trường luân phiên cử cán bộ giáo viên tham gia các đợt tập huấn do ngành tổ chức. Trong những năm qua toàn bộ giáo viên nhà trường đều được tham gia các đợt tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học trong các dịp hè. Nhà trường đẫ có hệ thống máy chiếu để phục vụ trong công tác giảng dạy tốt hơn. Đó là những thuận lợi lớn cho công tác giảng dạy của chúng tôi. Song song với những thuận lợi đó cũng còn nhiều khó khăn. 
 b/ Khó khăn: 
 Khó khăn: Tuy nhiên trong việc học tập của học sinh chương trình còn mới dẫn đến kết quả dạy và học môn Mĩ thuật của trường đạt hiệu quả chưa cao. Thành công và hạn chế trong những năm qua tôi được nhà trường phân công giảng dạy bộ môn Mĩ thuật tại trường, với kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tại đây, bên cạnh đó tôi đang sinh sống trên địa bàn thành phố ... Nên tôi đã phần nào hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của các em ở nơi đây. Trong công tác giảng dạy tôi đặc biệt quan tâm đến những học sinh yếu, vẽ còn chậm, còn lúng túng trong việc thực hành bài tập vẽ. Phối kết hợp với nhà trường, giáo viên chủ nhiệm để giúp đỡ, động viên các em đi học đều, giúp các em có tâm lí tốt để học tốt. Thường xuyên tham mưu với lãnh đạo cấp trên bổ sung cơ sở vật chất để phục vụ công tác dạy học của giáo viên và học sinh, đồ dùng dạy học do cấp trân cấp về tương đối đầy đủ, những trang thiết bị phục vụ việc dạy và học được cấp về thường xuyên theo dự án hỗ trợ cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, sách giáo khoa, vở học tập cho học sinh là con em có hoàn cảnh khó khăn tại chỗ. Hệ thống phòng học được xây dựng kiên cố có sân chơi rộng, thoáng mát cho học sinh. Bên cạnh đó trường tôi thuộc một trong những nơi khó khăn đóng trên địa bàn của thành phố, lại có điểm trường nên còn nhiều trở ngại như chưa xây dựng được phòng chức năng riêng cho bộ môn Mĩ thuật,. Các trang thiết bị khác vẫn còn thiếu nhiều như tranh ảnh, tranh của các học sĩ, vật mẫu , một số đồ dùng dạy học phần nhiều là do giáo viên tự làm, tự thiết kế để dạy học. Hiện tại trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột - DakLak chúng tôi các bậc phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em. Để chuẩn bị vào năm học mới các bậc phụ huynh cũng có chuẩn bị đồ dùng học tập cho các em, tuy nhiên hầu hết phụ huynh đều thuộc thành phần lao động, hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, bên cạnh đó phần nhiều phụ huynh học sinh là người không có điều kiện kinh tế khá giả, nên bà con nhận thức vai trò của môn Mĩ thuật trong trường học chưa đúng đắn, chưa hiểu được vai trò của Mĩ thuật trong đời sống con người cũng như trong học tập của con em, nên phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học Mĩ thuật của các em. Khi đến trường các em còn thiếu đồ dùng học tập môn Mĩ thuật như màu vẽ, bút chì, giấy vẽ Hầu như trong quá trình học tập các em chỉ làm bài tập thực hành trên vở tập vẽ in sẵn, bên cạnh có một số học sinh không có đồ dùng để học vẽ nên chất lượng dạy và học môn mĩ thuật chưa cao dẫn đến các em chưa hứng thú học Mĩ thuật cũng như phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề. Học sinh rất thích học vẽ nhưng lại không có đồ dùng, lâu dần các em chán nản không thích vẽ và không thích học Mĩ thuật nữa. 
 * Mặt mạnh - mặt yếu:
 Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy Mĩ thuật đã được nhiều năm, với vốn kiến thức đã được học tập ở nhà trường sư phạm cùng với việc không ngừng học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, tự học , tự rèn về công nghệ thôn tin phục vụ trong công tác giảng dạy, có ý thức trách nhiệm nghiêm túc trong việc đào tạo lớp trẻ nhận thức về cái đẹp trong cuộc sống. Nên việc nhìn thấy các em ngày càng không hứng thú nhiều trong việc học phân môn vẽ, xé dán làm sản phẩm đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ và trăn trở. Vì vậy nên đã thúc dục tôi tích cực nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của anh em đồng nghiệp để tìm ra một số giái pháp giúp học sinh hứng thú khi học vẽ, xé dán làm sản phẩm. Tuy vậy bản thân còn nhiều khiếm khuyết, nhưng tôi luôn nung nấu để tìm ra giải pháp tạo hứng thú cho các em học tốt phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề. Các bậc phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em. Để chuẩn bị vào năm học mới các bậc phụ huynh cũng có chuẩn bị đồ dùng được cấp về thường xuyên theo dự án hỗ trợ cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, sách giáo khoa, vở học tập cho học sinh là con em đồng bào dân tộc tại chỗ. Hệ thống phòng học được xây dựng kiên cố có sân chơi rộng, thoáng mát cho học sinh. Bên cạnh đó trường tôi thuộc một trong những phường khó khăn của thành phố, lại có hai điểm trường nên còn nhiều trở ngại như chưa xây dựng được phòng chức năng riêng cho bộ môn Mĩ thuật. Các trang thiết bị khác vẫn còn thiếu nhiều như tranh ảnh, tranh của các học sĩ, vật mẫu , một số đồ dùng dạy học phần nhiều là do giáo viên tự làm, tự thiết kế để dạy học. Hiện tại trên địa bàn thành phố chúng tôi các bậc phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em. Để chuẩn bị vào năm học mới các bậc phụ huynh cũng có chuẩn bị đồ dùng học tập cho các em, tuy nhiên hầu hết phụ huynh đều thuộc thành phần lao động, hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, bên cạnh đó phần nhiều phụ huynh học sinh là người đồng bào dân tộc tại chỗ, nên bà con nhận thức vai trò của môn Mĩ thuật trong trường học chưa đúng đắn, chưa hiểu được vai trò của Mĩ thuật trong đời sống con người cũng như trong học tập của con em, nên phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học Mĩ thuật của các em. Khi đến trường các em còn thiếu đồ dùng học tập môn Mĩ thuật như màu vẽ, bút chì, giấy vẽ Hầu như trong quá trình học tập các em chỉ làm bài tập thực hành trên vở tập vẽ in sẵn, bên cạnh có một số học sinh không có đồ dùng để học vẽ nên chất lượng dạy và học môn mĩ thuật chưa cao dẫn đến các em chưa hứng thú học Mĩ thuật cũng như phân môn vẽ, hoặc xé dán làm sản phẩm. Học sinh rất thích học vẽ nhưng lại không có đồ dùng, lâu dần các em chán nản không thích vẽ và không thích học Mĩ thuật nữa. 
 Mặt mạnh - mặt yếu Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy Mĩ thuật đã được nhiều năm, với vốn kiến thức đã được học tập ở nhà trường sư phạm cùng với việc không ngừng học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, tự học , tự rèn về công nghệ thôn tin phục vụ trong công tác giảng dạy, có ý thức trách nhiệm nghiêm túc trong việc đào tạo lớp trẻ nhận thức về cái đẹp trong cuộc sống. Nên việc nhìn thấy các em ngày càng không hứng thú nhiều trong việc học phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ và trăn trở. Vì vậy nên đã thúc dục tôi tích cực nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của anh em đồng nghiệp để tìm ra một số giái pháp giúp học sinh hứng thú khi học môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề. Tuy vậy bản thân còn nhiều khiếm khuyết, nhưng tôi luôn nung nấu để tìm ra giải pháp tạo hứng thú cho các em học tốt phân môn vẽ, xé dán làm sản phẩm. Các bậc phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em. Để chuẩn bị vào năm học mới các bậc phụ huynh cũng có chuẩn bị đồ dùng học Mĩ thuật ở trường Tiểu ..được tốt hơn, và tạo được hứng thú cho các em khi học bộ môn Mĩ thuật cũng như phân môn nặn hoặc vẽ, xé dán làm các sản phẩm theo chủ đề.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
 Một số giải pháp để tạo hứng thú học tốt phân môn môn vẽ, xé dán làm sản phẩm khối lớp 1 ở trường Tiểu học 
Mục tiêu của giải pháp: 
 Sáng kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và bổ sung vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết cho bản thân. Từ đó giúp cho học sinh thực hiện bài thực hành trên lớp nhanh hơn, đạt hiệu quả học tập tốt hơn.
 Qua một năm dạy học môn Mĩ thuật Chương trình mới, bản thân tôi vừa dạy vừa nghiên cứu thực tế tình hình học tập của từng đối tượng, từng khối lớp nên tôi áp dụng một số phương pháp để nâng cao hiệu quả cho học sinh khối 1 có thể dễ dàng làm quen và học tốt môn Mĩ thuật. Chương trình mới, Mĩ thuật lớp 1 (Cánh Diều)
 * Đặc điểm, mục tiêu thứ nhất. Nội dung chương trình của phân môn vẽ, xé dán làm sản phẩm . 
 * Đặc điểm, mục tiêu thứ hai: Của chương trình mới Mĩ thuật lớp 1 (Cánh Diều) nhằm; Cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về Mĩ thuật và hình thành các kỹ năng cần thiết, để học sinh hoàn thành được các bài tập theo chương trình. Giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, giúp các em cảm nhận và vận dụng cái hay, cái đẹp của Mĩ thuật vào học tập và sinh hoạt hằng ngày. Phát triển trí tuệ, phát huy trí tưởng tượng, sang tạo, góp phần hình thành nhân cách người lao động mới. Mục tiêu của phân môn vẽ, xé dán làm sản phẩm ở các lớp 1 cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu, đơn giản về cách quan sát, nhận xét mâu thực ở xung quanh; bước đầu hình thành những kĩ năng cần thiết để hoàn thành bài tập. thông qua đó, giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp về hình dáng của các đồ vật, hoa quả, con vật Vậy vẽ, xé dán làm sản phẩm là gì? Hiểu đơn thuần là nghiên cứu và ghi lại đối tượng có thật trước mắt, và có nhiều cách gọi khác nhua như làm hình hoạ, tả thực, làm sản phẩm theo mẫu. 
 Chương trình Mĩ thuật mới ở bậc tiểu học thì gọi là phân môn Vẽ theo mẫu với mục đích giúp giáo viên và học sinh dễ hiểu, dễ tiếp nhận khi dạy và học. Nội dung phân môn nặn vẽ, xé dán theo mẫu các chủ đề khối lớp 1 bao gồm: .yêu cầu cao hơn một chút để chuẩn bị cho học sinh chuyển sang giai đoạn tiếp theo. ..
 Do đó, yêu cầu nhận xét mẫu kĩ hơn, từ tổng thể đến chi tiết; Nặn các đồ vật bắng nét và sắp xếp hình vẽ hợp lí với khổ giấy. Qua sự tiếp xúc này nhằm giúp cho các em có những kiến thức sơ đẳng nhất về hình khối, màu sắc, đường nét của các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên, từ đó các em sẽ yêu thích thiên nhiên, biết quý trọng và bảo vệ môi trường sống quanh em. Đây cũng chính là các bậc thang đầu tiên để dẫn dắt học sinh bước vào thế giới cái đẹp với một thị hiếu thẩm mĩ đúng đắn, lành mạnh, đồng thời giúp các em có thể thưởng thức được cái đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật, biết yêu quý và trân trọng cái đẹp. 
 * Phương pháp giảng dạy theo Chương trình mới (Cánh Diều)
 - Tiếp cận theo chủ đề:
 - Ví dụ: Thiết kế 1 Chủ đề: 
Chủ đề 2: MÀU SẮC VÀ CHẤM
Bài 2: MÀU SẮC QUANH EM
 (Thời lượng 2 tiết)
I. Mục tiêu bài học
1. Phẩm chất
Bài học góp phần hình thành và phát triển ở HS nhân ái, chăm chỉ, trách nhiệm, trung thực . , thông qua một số biểu hiện cụ thể sau: 
- Yêu thiên nhiên, yêu thích nét đẹp của màu sắc.
- Biết chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ học tập, tham gia các hoạt động nhóm.Trung thực trong nhận xét, chia sẻ, thảo luận.
- Không tự tiện sử dụng màu sắc, họa phẩm, của bạn.
- Biết giữ vệ sinh lớp học, ý thức bảo quản đồ dùng học tập, trân trọng sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật của mình, của mọi người.
2. Năng lực
Bài học góp phần hình thành, phát triển các năng lực sau:
Năng lực mĩ thuật
- Nhận biết và gọi tên được một số màu sắc quen thuộc; biết cách sử dụng một số loại màu thông dụng; bước đầu biết được sự phong phú của màu sắc trong thiên nhiên, trong cuộc sống và trong sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật.
- Sử dụng màu sắc ở mức độ đơn giản. Tạo được sản phẩm với màu sắc theo ý thích.
- Phân biệt được một số loại màu vẽ và cách sử dụng. Bước đầu chia sẻ được cảm nhận về màu sắc ở sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật và liên hệ cuộc sống.
Năng lực chung
- Năng lực tự chủ và tự học: Biết chuẩn bị đồ dùng, vật liệu để học tập; tự giác thự hiện nhiệm vụ học tập. 
- Năng lực giao tiếp và hợp tác: Biết cùng bạn trao đổi, thảo luận, nhận xét, phát biểu về các nội dung của bài học. 
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Biết quan sát, nhận rasuwj khcs nhau của màu sắc. 
Năng lực đặc thù khác
- Năng lực ngôn ngữ: Sử dụng được ngôn ngữ diễn tả về màu sắc theo cảm nhận.
- Năng lực khoa học: biết được trong tự nhiên và cuộc sống có nhiều màu sắc khác nhau.
- Năng lực thể chất: Biểu hiện ở hoạt động tay trong các kĩ năng thao tác, sử dụng công cụ bằng tay như sử dụng kéo, hoạt động vận động. 
II. Chuẩn bị của học sinh và giáo viên
1.Học sinh:
- SGK Mĩ thuật 1, Vở Thực hành Mĩ thuật 1; 
- Các đồ dùng cần thiết như gợi ý trong bài 1 SGK Mĩ thuật 1. 
- Các sản phẩm khác nhau có màu sắc phong phú.
2.Giáo viên: 
- Các đồ dùng cần thiết như gợi ý trong bài 1 SGK Mĩ thuật 1. 
- Minh họa giới thiệu cách sử dụng một số loại màu vẽ thông dụng.
- Phương tiện, họa phẩm chủ yếu là màu vẽ, giấy màu và đất nặn nhiều màu.
- Chuẩn bị tốt các nội dụng về màu sắc và ý nghĩa của nó.
- Một số bức tranh rõ màu chủ đạo, màu sắc khác nhau.
III. Phương pháp, hình thức tổ chức DH chủ yếu
1.Phương pháp dạy học: nêu và giải quyết vấn đề, hướng dẫn thực hành, gợi mở, tích hợp.
2.Kĩ thuật dạy học: Bể cá, động não.
3. Hình thức tổ chức dạy học: Làm việc cá nhân, làm việc nhóm.
IV. Các hoạt động dạy học chủ yếu
Tiết 1
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Hoạt động 1: Ổn định lớp.
Kiểm tra sĩ số và chuẩn bị bài học của HS.
Kiểm tra bài cũ về màu sắc.
Hoạt động 2: Khởi động, giới thiệu bài học.
GV giơ một số hình ảnh gần gũi quen thuộc trong tự nhiên, đời sống( cây có đóm lá hình giống các chấm, pháo hoa, tuyết rơi, con chó đốm, con cánh cam, hộp đựng bút, )
Nêu câu hỏi, giúp HS nhận ra chấm ở hình ảnh.
Gv chốt ý giới thiệu tựa bài.
Hoạt động 3: Tổ chức cho HS tìm hiểu, khám phá Những điều mới mẻ
1/Quan sát, nhận biết
1.1. Tổ chức HS tìm chấm ở một số hình ảnh trong tự nhiên, trong đời sống:
– Hướng dẫn HS quan sát hình ảnh SGK và yêu cầu HS nêu kích thước, màu sắc của các chấm trong hình trang 14. Gợi nhắc: chấm có kích thước bằng nhau/khác nhau; chấm có màu sắc giống nhau/khác nhau (SGK, trang 14).
- Hình ảnh trang 15 SGK Mĩ Thuật 1. GV có thể chuẩn bị thêm hình ảnh con cánh cam, pháo hoa, tuyết rơi, 
- Tổ chức cho HS thảo luận nhóm và yêu cầu các em:
+ Giới thiệu tên các hình ảnh minh họa.
+ Nêu hình dạng màu sắc của các chấm ở mỗi hình ảnh.
– Tóm tắt nội dung trả lời của các nhóm HS, kết hợp giới thiệu thêm thông tin về: con sao biển; con hươu sao; trang phục váy.
–Gợi mở HS quan sát lớp học để tìm chấm.
– Giới thiệu một số hình ảnh có hình chấm và gợi mở HS kể tên, đọc tên màu sắc của các chấm.
1.2. Tổ chức HS tìm chấm ở sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật:
– GV giới thiệu các sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật, kết hợp tương tác với HS.
+ Bức tranh “ Hoa hướng dương” của bạn Đình Quang.
+ Bức tranh “ Chiều chủ nhật trên đảo Grăn- đơ Da- tơ”(trích đoạn) của họa sĩ Sơ- rát (Georges Pierre Seurat). Yêu cầu HS: thảo luận, giới thiệu một số hình ảnh được tạo từ chấm.
. GV giới thiệu họa sĩ Sơ- rát (1859- 1891): Là người Pháp, ông là người rất thích sử dụng chấm để sáng tạo các tác phẩm mĩ thuật.
.GV gợi mở, nêu câu hỏi giúp HS nhận ra chấm được họa sĩ sử dụng.
– Tóm tắt nội dung HS chia sẻ, kết hợp giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm và họa sĩ Sơ- rát.
– Giới thiệu thêm một số bức tranh của HS, họa sĩ.
– GV tóm tắt nội dung quan sát, 
+ Trong thiên nhiên, trong cuộc sống có nhiều hình ảnh biểu hiện chấm.
+ Có thể sử dụng các chấm để tạo các sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật hoặc trang trí làm đẹp cho các đồ dùng, đồ vật theo ý thích.
 GV sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, gợi mở,.. để kích thích HS tham gia thực hành, sáng tạo.
 2/ Thực hành, sáng tạo
2.1. Tìm hiểu cách tạo chấm và sử dụng chấm để tạo nét, tạo hình.
* Tổ chức HS tìm hiểu cách tạo chấm
– Hướng dẫn HS quan sát một số cách tạo chấm (trang 16, SGK) và trả lời câu hỏi trong SGK.
– Giới thiệu cách tạo chấm, kết hợp thị phạm, giảng giải và tương tác với HS.
– Gợi nhắc HS: Có thể tạo chấm bằng các cách khác nhau.
– Tổ chức HS tạo chấm và thể hiện trên vở Thực hành Mĩ thuật (trang 8).
* Tổ chức HS tìm hiểu sử dụng chấm để tạo nét, tạo hình
– Tổ chức HS quan sát và gợi mở nhận ra các chấm sắp xếp tạo nét tạo hình trong SGK trang 16 và hình ảnh do GV chuẩn bị và yêu cầu HS nhận ra cách sắp xếp
+ Chấm tạo nét xoắn ốc,
+ Chấm tạo nét lượn sóng,
+ Nét tạo hình tròn.
–Gợi mở rõ hơn cách tạo nét, tạo hình từ chấm.
+ Nét lượn sóng, nét xoắn ốc
+ Hình tròn
–GV giới thiệu thêm cách tạo chấm bằng cách vẽ hoặc in các vật có hình dạng khác nhau.
2.2. Thực hành, sáng tạo
– Bố trí HS ngồi theo nhóm (6HS).
– Giao nhiệm vụ cho HS: Sử dụng chấm để tạo nét hoặc hình theo ý thích.
– Lưu ý HS: lựa chọn màu vẽ hoặc giấy màu để thực hành sử dụng chấm tạo nét hoặc hình; có thể tạo chấm có kích thước, màu sắc theo ý thích.
– Quan sát, hướng dẫn và có thể hỗ trợ HS thực hành.
– Gợi mở nội dung HS trao đổi/thảo luận trong thực hành.
 3/ Cảm nhận, chia sẻ
– Hướng dẫn HS trưng bày sản phẩm
– Gợi mở HS giới thiệu:
+ Tên nét hoặc hình đã tạo được bằng chấm
+ Màu sắc, kích thước của các chấm ở sản phẩm.
+ Chia sẻ cảm nhận về sản phẩm.
Hoạt động 4: Tổng kết tiết học
– Nhận xét kết quả thực hành, ý thức học, chuẩn bị bài của HS, liên hệ bài học với thực tiễn.
– Gợi mở nội dung tiết 2 của bài học và hướng dẫn HS chuẩn bị.
Lớp trưởng báo cáo sĩ số. Tổ trưởng báo cáo phần chuẩn bị.
GV gọi 3 em lần lượt nêu tên một số màu mà GV yêu cầu.
HS quan sát.
HS trả lời
HS nhắc lại tựa bài.
– Thảo luận nhóm 6 HS.
– Thảo luận: Tìm chấm ở các hình ảnh trang 14 theo gợi mở của GV
– Đại diện các nhóm HS trình bày. Các nhóm khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung.
– Quan sát lớp học, tìm chấm.
–Quan sát, đọc tên một số màu sắc của chấm trên đồ vật.
– Quan sát, trả lời câu hỏi của GV.(Sử dụng chấm để tạo hình bông hoa hướng dương trong tranh. Nhận xét câu trả lời của bạn.
– Thảo luận: nhóm 4 HS
– Đại diện nhóm HS t

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_de_tao_hung_thu_hoc_t.doc